Phần 4-A: Dự đoán hậu Covid

Chia sẻ tin này:

Phần 4 này mình viết và đăng lên ngày 20/4/2020 giữa những ngày giãn cách xã hội của đợt dịch covid đầu tiên của Việt Nam.

Bài này mang tính tổng hợp lịch sử và dự đoán tương lai thông qua giải thích mô tả sự vận hành kinh tế thế giới và kinh tế thị trường của Việt Nam. Vì có tính chất dự đoán nên mình ĐĂNG NGUYÊN VĂN NHƯ CŨ để thể hiện giá trị phân tích dự đoán của bài viết.

Kiên trì đọc hết và hiểu được bài viết phần 4 thì các bạn mới hiểu được vận hội đất nước và xu thế BĐS của Việt Nam trong phần cuối cùng Phần 5, khi đó các bạn mới biết chuẩn bị những hành trang gì bước tới tương lai trong ngành BĐS.

Tuy nhiên bài này rất dài vì thế mình chia thành 2 phần 4-A, 4-B và phân mục tiêu đề để các bạn dễ đọc và theo dõi. Bạn nào muốn hiểu được tại sao nền kinh tế luôn khủng hoảng ở các mốc 1930 – Đại khủng hoảng kinh tế; 1973 Khủng hoảng dầu mỏ; 1987 Sụp đổ thị trường chứng khoán Mỹ; 1997 Khủng hoảng tài chính Châu Á, 2008 –Khủng hoảng kinh tế thế giới; và cuối cùng năm 2020 Khủng hoảng kinh tế toàn cầu ở 2 mặt tương phản nhau do Covid & do sự phân ly của 2 đế chế kinh tế tuần tự số 1 và 2 là Mỹ và Trung Quốc.

Sự phân ly vẫn đang diễn ra và sẽ ngày càng diễn ra sâu sắc ở hàng rào thuế quan, cắt đứt dần các kênh ngoại giao, và đỉnh cao nhất sẽ là phân ly của 2 nền tảng công nghệ Internet, GPS, mobile APP, nền tảng phân phối hàng hóa vật chất online và thông tin Bigdata v.v.

Nước Mỹ cần triệt hạ nền tảng điện tử, năng lực trí tuệ nhân tạo (AI), thiết bị kết nối thông minh của Trung Quốc (TQ) cụ thể là cắt nguồn cung cấp siêu chíp, loại bỏ APP, dựng tường lửa v.v. của các tập đoàn nền tảng trực tuyến hàng đầu của TQ thì mới có thể đóng cửa chỉ bảo, dạy giỗ tứ đại quyền lực thế giới mới nổi, ngỗ ngược của họ trong thập kỷ qua đó là : Google, Facebook, Amazon và Apple.

Thế giới sẽ đối mặt với sự phân ly dẫn đến có thể tồn tại 2 nền tảng Internet khác nhau và các quốc gia khác sẽ phải lựa chọn tham gia vào nền tảng nào cùng nghĩa là sẽ dần hình thành 2 mô hình học thuyết kinh tế khác nhau cho 2 khối.

Các cú đấm phân định thắng thua vẫn trong tương lai tới đây, phải sau khi Mỹ – Trung sử dụng hết các biện pháp mạnh nhất với nhau thì thế giới tài chính mới về trạng thái cân bằng mới, vốn FDI mới trở lại VN (hiện tại giải ngân FDI đang ngưng và chậm lại do Covid, giảm hơn so với cùng kỳ năm 2019), hay thực sự tạo ra trào lưu dịch chuyển mới. Những con số hơn chục doanh nghiệp Nhật hay Mỹ dịch chuyển, một vài cánh én không thể làm lên mùa xuân so với hàng chục ngàn nhà máy sản xuất của Mỹ và đồng minh hiện vẫn đang nằm tại TQ vừa nghe ngóng vừa dịch chuyển.

Việt Nam giữ vị trí quan trọng trong địa chính trị vùng, cũng đồng nghĩa là tư liệu sản xuất gốc BĐS VN sẽ ngày càng có giá đối với Quốc tế, nhà đầu tư phát triển BĐS nào phán đoán đúng thời điểm phục hồi sẽ thành công vượt trội, người làm BĐS nào chuẩn bị tốt hành trang sẽ chớp được vận hội tương lai.

Thế giới vẫn đang chạy đua sản xuất vắc xin và công bố thành công vắc xin như những chiến lược về chính trị phân định lại bản đồ quyền lực thế giới, thực sự có hay không phải tới khi phân phối vắc xin đại chúng mới thực sự là thật và có tác động tới ổn định vĩ mô quốc tế. Vì vậy khi đọc bài viết này các bạn ít nhiều sẽ hiểu được khủng hoảng đang diễn ra như thế nào và phán đoán xu thế thế giới, từ đó phán đoán sự phục hồi trở lại của VN. Những bạn nào đã tham gia thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ dễ dàng hơn khi đọc và tiếp cận phần 4 và 5 của series bài viết này. Còn các bạn nào chuyên ngành về BĐS thấy bài này khó hiểu quá thì có thể bỏ qua, còn bạn nào đọc tới cùng sẽ tìm thấy những cơ hội đằng sau khủng hoảng.

🔰 Nội dung Phần 4 đăng lại nguyên văn không sửa dưới đây:

PHẦN 4-A

Mình vẫn tiếp tục viết với lối dẫn giải bình dị, tuy ít con số không giống như các bản phân tích vĩ mô của các chuyên gia mà các bạn thường thấy, mình chỉ tập chung vào các con số chính, mang tính quyết định thay đổi thế cục, và những dẫn giải logic, suy luận diễn tiến, cách thức nó diễn ra. Với cách đưa thông tin như vậy thật may đã phù hợp với đại số đông, với nhiều người thậm chí chưa từng học qua về trường lớp kinh tế (KT) vẫn có thể hiểu được.

Một lần nữa cảm ơn tình cảm của các bạn, mong các bạn tương tác cmt với mình nhiều hơn, mình sẵn lòng giải đáp, và cũng mong muốn nhận được sự góp ý cả các chuyên gia để mình có thể học hỏi và tiến bộ hơn trong cuộc sống. Chúng ta tiếp tục với hành trình của chúng ta – Việt Nam sau khi đi qua 3 làn sóng Bđs, cũng là những bước chập chững hội nhập sâu vào KT Thế giới (TG), và Việt Nam đang có vị trí quan trọng trên dòng chuyển cực lớn trong những ngày đầu tiên của năm 2020, sự xuất hiện EcoV là thảm họa nhưng cũng là tấm gương phản chiếu rõ nét hơn cho sự chuyển cực đó.

Để hiểu sự chuyển cực lần này thì các bạn phải hiểu những lần chuyển cực trước đó. Vì vậy bài này sẽ khá dài, vì mình dẫn giải các bạn cội gốc của vận hành KT thế giới mà ở đó cốt lõi là dòng vốn, sức mạnh dẫn dắt KT TG của đồng tiền số 1, đồng Dollar Mỹ, để hiểu nó với nhiều bạn chưa học qua kinh tế, có thể ví như mình đưa các bạn đi tới sao Hỏa. Mong các bạn chịu khó đọc, vì nền kinh tế của chúng ta đã gia nhập sâu rộng với nền KT TG, và các bạn muốn dự đoán nó trong tương lai thì phải hiểu cách vận hành của nó, hiểu được nó bạn còn có thể bảo vệ được tài sản của bạn trong tương lai.

Việt Nam (VN) gần 30 năm qua, đang nổi lên là một quốc gia trẻ năng động, nhân công rẻ nhưng tay nghề chuyên nghiệp còn thấp, sự sáng tạo trong kinh doanh, cải cách thể chế chưa thực sự xứng tầm, nhưng các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài thì tuyệt vời, thậm chí lấn át hết các chính sách cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Các chính sách ưu tiên, mới chỉ hầu hết là làm sao hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài, nhiều ngoại tệ đẩy vào nền KT, như vậy có thể thấy nền kinh tế tăng trưởng phần lớn là nhờ được bơm tiền từ bên ngoài, điều chỉnh cán cân tín dụng ở bên trong.

Kinh tế phát triển, thị trường chứng khoán (TTCK), thị trường Bđs đã phát triển nóng liên tục (sốt đất) trong giai đoạn 2015-2018. Tăng trưởng GDP của VN năm 2019 là 7,02% chạm mốc 300 tỷ USD, giữa bối cảnh thế giới cũng đã đứng lên và phát triển nóng hậu khủng hoảng tài chính TG cách đây 10 năm với 2 cường quốc hàng đầu về kinh tế là Mỹ và Trung Quốc lần lượt là số 1 và số 2 TG và cũng là 2 đối tác kinh tế hàng đầu của VN. Đặc biệt sự phụ thuộc lớn của KT Việt Nam vào KT Trung Quốc (TQ) với hầu hết nguyên liệu đầu vào, máy móc, sản phẩm tiêu dùng v.v khi mà nhập siêu từ TQ luôn từ 3-4 tỷ USD mỗi năm theo đường chính thức, còn con số phi chính thức tuy không thể thống kê nhưng cũng không kém con số chính thức là bao.

Việc TQ phá giá đồng nội tệ năm 2015, đẩy cuộc chiến thương mại, cũng là cuộc chiến tiền tệ giữa 2 quốc gia bắt đầu vào giai đoạn cao trào nhất trong năm 2019 khi 2 bên liên tục đưa ra và trả đũa lẫn nhau bằng các chính sách thuế, ngăn cấm mua thiết bị truyền thông của nhau vì lý do anh ninh, cả 2 phía TQ và Mỹ dường như đều không có ý định lùi bước, quyết đấu so găng. Thật có duyên khi cả 2 quốc gia này VN chúng ta đều có giai đoạn hiểu nhau sâu sắc, và cũng là 2 thị trường nhập khẩu hàng đầu của KT VN. Và giữa thời khắc hai “người tình” sâu đậm của VN trong quá khứ đang đôi co về vi phạm sở hữu trí tuệ, ngăn sông cấm chợ, trừng phạt thuế quan, vi phạm các nguyên tắc của WTO v.v. thì dịch bệnh xuất hiện.

🔰 TÁC ĐỘNG CỦA ĐẠI DỊCH NCOV – THIÊN NGA ĐEN

Thiên nga đen (thuật ngữ giới tài chính đặt tên) – thảm họa dịch tễ lớn nhất trong vòng 100 năm xuất hiện, mà những nguyên nhân ẩn sâu trong nó có thể phải 30-50 năm sau chúng ta mới có lời giải đáp vì thông tin chính xác về mọi thứ lúc này nằm dưới những con dấu tuyệt mật của mỗi quốc gia. Ta chỉ biết rằng nó xuất hiện đúng thời điểm 2 nền KT đang tung những cú knock-out vào nhau nhằm phân định chiến bại.

Cũng giống như việc Mỹ có hay không có thông tin tình báo chính xác về dịch bệnh!?, hay có tin chính xác rồi mà vẫn quyết định “chủ quan” như vậy!?, TQ tuyên bố virus không có xuất xứ TQ!?, Mỹ phản bác!?, Mỹ nói con virus có liên quan tới viện nghiên cứu virus của TQ!?, EU yêu cầu làm rõ!? Mỹ có hay không đang phát động cuộc chiến pháp lý TG với tâm điểm là TQ!? v.v thì chúng ta tiếp tục theo sát diễn biễn những phát ngôn và hành động của cả Mỹ và TQ trong thời gian tới và tự đưa ra phán đoán của riêng mình. Với những người nhạy cảm với tình hình TG, rõ ràng là chúng ta đang ở giai đoạn thế giới chuyển cực theo cả nghĩa đen là dịch bệnh lan tràn và nghĩa bóng là khi các nền KT lớn dịch chuyển cả về đối tượng và giá trị lớn nhất trong vòng 50 năm qua.

Em Thiên nga đen, không đến từ hồ thiên nga của bản Ballet nổi tiếng, mà em ấy là thảm họa thảm khốc – diện rộng có tính sát thương, không thể lường trước và thay đổi cơ bản hành vi của kinh tế xã hội. Em ấy từ tên khai sinh Virus Vũ Hán sau 3 lần được đổi tên cuối cùng WHO thận trọng đặt là NcoV19. Thiên nga đen làm số người chết trên toàn thế giới tăng nhanh hơn bất kỳ một thảm họa rơi máy bay nào đã từng gây sốc trong quá khứ, cảm giác như là TG mỗi ngày rơi 1-5 cái máy bay chở khách vậy. Đã đưa các quốc gia trên toàn thế giới vào thảm họa dịch tễ nếu chủ quan như Hàn Quốc (giai đoạn đầu), Iran, Ý, Tây Ban Nha .v. và tiếp là Mỹ. Tình hình hiện tại ở các quốc gia khác vẫn đang diễn biến phức tạp và tương lai tới đây thực sự khó định đoán.

Ngoài thảm họa dịch tễ là dịch EcoV với sự dễ dàng lây lan hơn cả cảm cúm thông thường, nhưng lại có tính sát thương cao, tấn công các cơ quan nội tạng, tính mạng, gây sock, nên nó còn mang đến một dịch bệnh lớn hơn hơn nhiều đó chính là KHỦNG HOẢNG TÂM LÝ con người, tạo mầm mống bất ổn xã hội. Chính vì vậy để giữ xã hội ổn định, bảo vệ tính mạng công dân nên hầu hết các nước đã đóng biên giới, tuyên bố tình trạng khẩn cấp, phong tỏa, cách ly, giãn cách xã hội trên diện rộng và hầu hết kéo dài mỗi đợt 2-3 tháng, chưa từng có tiền lệ kể từ sau chiến tranh TG lần thứ 2. Điều đó đã làm nền KT mỗi quốc gia tê liệt, nền KT TG bước vào giai đoạn suy thoái lớn nhất kể từ năm 1930, khủng khoảng KT- một khái niệm mà VN chúng ta đã quen kể từ sau khủng hoảng KT năm 2008 mà mình đã mô tả ở bài phần 3.

IMF và World Bank đã khẳng định, TG không thể tránh được một cuộc đại suy thoái lớn nhất kể từ năm 1930, thậm chí còn tệ hơn năm 1930. IMF dự báo GDP toàn cầu sẽ là -3%, nghiêm trọng hơn rất nhiều so với mức giảm -0,1% của năm 2008, TQ sẽ tăng trưởng âm lần đầu tiên trong 30 năm. Dự kiến GDP VN sẽ chỉ tăng 2,7% năm 2020 so với mức 5,7% của năm 2008, nếu tình hình diễn biến phức tạp hơn thì các con số này sẽ thay đổi và thấp hơn nữa.

Khi khủng hoảng KT thì các diễn biến sau sẽ xảy ra với hầu hết các nước : Dòng vốn ngoại sẽ rút đi (về quốc gia mà vốn đầu tư nó từ đó đến, vì quốc gia đó cũng đang khủng hoảng) hoặc ngưng rót xuống theo cam kết, hầu hết các doanh nghiệp trong nước ngưng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng do thị trường giảm phát. Doanh nghiệp đóng cửa nhiều thì thất nghiệp gia tăng, và khi dân chúng thấy rủi ro trong các hoạt động đầu tư thì tiền của họ tìm nơi ẩn nấp mới như vàng, ngoại tệ mạnh, gửi tại ngân hàng ăn lãi suất. Dẫn tới sự e dè, ngưng lại trong hầu hết các hoạt động đầu tư kinh doanh, tiền rút khỏi TTCK, làm các chỉ số CK chìm trong sắc đỏ v.v. Cái vòng luẩn quẩn lại quay lại từ đầu ở trên và tình hình sẽ thêm nghiêm trọng nếu CP không có biện pháp làm cho dòng tiền tiếp tục vận hành và lưu thông trở lại.

Vì vậy để làm tan cục tắc máu đông khiến cho dòng tiền luân chuyển trở lại, các gói tiền cứu trợ nền KT khổng lồ liên tục được các CP đưa ra, bản chất của nó là lới lỏng chính sách tiền tệ, giảm lãi suất (thậm chí bằng 0), in thêm tiền để bơm vào nền KT. Nền KT càng mạnh quy mô lớn thì đồng tiền càng mạnh và việc in thêm ra nó dễ dàng hơn. Lý do tại sau liên minh Châu âu EU được lập ra là nhằm có một đồng tiền chung mạnh cạnh tranh với đồng Bảng Anh mạnh từ thời đế quốc thực dân, với đồng Dollar thần thánh, và đồng Yên mạnh từ khi Nhật là cường quốc KT thứ 2 TG hơn 10 năm trước đây. Và thời điểm này, sau 20 năm qua khi TQ vươn lên cường quốc KT thứ 2, TG tài chính có thêm một người bạn khỏe mới: đồng Nhân dân tệ (NDT).

Với các quốc gia nhỏ đồng tiền yếu như VN, lại đã từng mang tiền sử không tốt, bệnh đột quỵ tài chính (siêu lạm phát trong quá khứ ở 2 lần đổi tiền thảm họa 1978, 1985) thì việc đưa thêm tiền vào lưu thông là vô cùng thận trọng, vì có thể gây siêu lạm phát, đột tử nền KT. Nếu muốn in thêm tiền, CP sẽ phải vay thêm bằng các ngoại tệ MẠNH mà nền KT đang cần nó trả cho nước nhập khẩu hàng lớn nhất cụ thể là đồng USD với đa số các quốc gia ta nhập khẩu, và còn lại có thể là 3 đồng tiền EURO, Yên Nhật, NDT. Hoặc phát hành trái phiếu CP cho các quốc gia khác nắm giữ và họ đưa lại cho chúng ta ngoại tệ, hoặc phải đẩy mạnh đầu tư công để vốn ODA nước ngoài được rót xuống theo cam kết hiệp định đã ký. Chỉ có làm vậy thì đồng tiền VND tăng thêm vào lưu thông mới không bị mất giá gây siêu lạm phát.

Ngoài các cách trên là tăng thêm lượng vàng dự trữ trong ngân khố nếu vẫn khai thác được vàng hàng năm nhiều như Nga, xuất dầu & vũ khí lấy vàng ở các cuộc chiến v.v đó là lý do vì sao Nga vẫn là một quốc gia tương đối độc lập, ổn định với nền kinh tế tự do của TG hậu Xô Viết.

Tới đây các bạn đã hiểu vì sao các quốc gia yếu muốn in thêm tiền thì phải có thêm được đồng tiền mạnh USD dự trữ tương ứng, còn nếu không sẽ vào siêu lạm phát như Velezuela, Zimbabwe. Khi tất cả các quốc gia cùng in tiền, thông tin các các nền KT cùng đồng loạt tung các gói tiền, tín dụng, hỗ trợ v.v. lớn chưa từng có tiền lệ trong lịch sử với các loại tên mỹ miều khác nhau nhằm chống đỡ khủng hoảng của các ngân hàng trung ương tràn ngập trên các bản tin thời sự. Thì ẩn sâu phía sau nó là cuộc chiến tiền tệ, là dịch chuyển của những khoản trái phiếu chính phủ khổng lồ, là các chính sách di chuyển các cơ sở sản xuất lớn, là sự mua đứt, hợp nhất M&A các khoản nợ, lượng cổ phần lớn xuyên biên giới v.v.

Và như ta thấy đã có sự kêu gọi rút các nhà máy của Mỹ, Nhật, Hàn, EU khỏi TQ – Công xưởng lớn nhất TG, hệ thống logistic hậu cần sx công nghiệp lớn nhất thế giới. Khi cả thế giới đang ngưng trệ thì cũng là thời điểm thuận lợi nhất cho các kế hoạch dịch chuyển được thực hiện.

🔰 SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC THÁCH THỨC SIÊU CƯỜNG MỸ

TQ một quốc gia – một nền văn minh lâu đời đã có nhiều công trình vĩ đại từ 2000 năm trước, đã sớm có nền sản xuất công cụ cho cư dân thành thị tại các kinh thành lớn, có mạng lưới giao thông đường sông rộng khắp thuận lợi cho giao thương buôn bán, và sở trường kinh doanh đã ăn vào máu người TQ từ trong huyết quản từ thời cổ đại, đã làm hàng hóa và các các cơ sở kinh doanh TQ ngày nay bao trùm toàn bộ TG.

Kể từ khi mở cửa những năm 1970, TQ đã thu hút nhiều nhân công chất lượng cao, kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng, công nghệ v.v. từ Tây Âu, Mỹ và sau này các nước khối Đông Âu XHCN cũ, sau 50 năm đã phát triển KT thần tốc và có nhiều công trình hiện đại như cầu và hầm trên biển dài nhất, sân bay lớn nhất, tòa nhà to nhất, v.v. đều là những kỷ lục nhất thế giới.

Tại sao TQ đi trước mở cửa trước chúng ta chỉ 20 năm nhưng hạ tầng tại các trung tâm lớn như Thẩm Quyến, Thượng Hải, Bắc Kinh (và nhiều TP khác) dường như hơn TP.HCM, HN phải tới hơn cả 100 năm vậy!? Vì dân số TQ quá quá đông, đã có văn hóa sinh hoạt thành thị lâu đời và khi họ tập trung tinh hoa, phát triển ở một trung tâm đô thị ở một thành phố nguồn lực có thể huy động là rất lớn, nên cùng 1 thời gian họ làm được nhanh gấp 5,6 lần chúng ta ở một trung tâm KT trọng điểm.

50 năm TQ phát triển nóng đã vươn lên là nền KT thứ 2 thế giới soán vị trí của Nhật Bản trong năm 2010 (Nhật Bản đã từng nắm giữ vị trí số 2 TG trong suốt thời gian từ sau LX sụp đổ). Với tham vọng xây dựng con đường tơ lụa mới – “kế hoạch vành đai con đường” với cửa ngõ vào Châu Âu là đồng minh Ý, vào Arap là đồng minh Iran, vào châu Mỹ là Velezuela, và hầu hết các nước Châu Phi, qua 3 nước Đông Dương tới vịnh Thái Lan v.v nhằm đưa hàng hóa TQ, văn hóa TQ tới các quốc gia này, đổi lại các quốc gia này sẽ phải tích trữ nhiều hơn đồng NDT trong thanh toán và bổ sung thêm vào danh mục dự trữ ngoại tệ mạnh để cân bằng việc in thêm tiền.

🔰 THỨ GÌ ĐẢM BẢO CHO GIÁ TRỊ ĐỒNG TIỀN MỖI NƯỚC TỪ NĂM 1930-1970 ĐÓ LÀ VÀNG & USD

Đồng tiền thời bản vị vàng, khi NHNN của một quốc gia muốn in phát hành một lượng tiền, thì phải đảm bảo một lượng vàng tích trữ tương ứng, sẽ gợi nhớ vì sao khi chính phủ VN đầu tiên thành lập ngoài số vàng lấy được của chế độ cũ thì kêu gọi toàn dân góp vàng cho chính phủ cách mạng để tiến hành in tiền. Và như vậy đồng tiền mang mệnh giá và giá trị, người dân có thể bất kỳ lúc nào dùng tờ giấy in mệnh giá đó (gọi là tiền) mua vàng của CP và ngược lại, khẳng định tờ giấy đã có niềm tin trao đổi, lưu thông. Vàng lại là đơn vị tiền mà hầu hết các quốc gia trao đổi lẫn nhau, và giá trị sẽ tăng vọt nếu có chiến tranh, dịch bệnh. Nhưng tới đại khủng hoảng KT năm 1930 thì chế độ bản vị vàng đã bị bỏ, và bắt đầu hình thành khái niệm vị trí đồng tiền mạnh số 1, số 2, mà các quốc gia khác nếu dùng nó đều gọi là ngoại tệ mạnh.

Khủng khoảng KT 1930 diễn biến khủng hoảng kinh tế cũng y hệt như hiện nay, khi khủng hoảng diễn ra toàn thế giới, các dòng tiền đầu tư ra nước ngoài của mỗi quốc gia đều rút về. Chỉ khác là nguyên nhân năm 1930 chủ yếu gây ra bởi 2 khái niệm khủng hoảng tài chính kinh tế học gọi là: bong bóng nợ – “Voi trắng”, suy giảm tăng trưởng do yếu tố chu kỳ “Tê giác xám”, hậu quả kết thúc của một chu kỳ nợ dài hạn, được giật dây tác động bởi tài phiệt hàng đầu TG giống như khủng hoảng KT ‪TG 2008 mà CP chúng ta đã có kinh nghiệm ứng phó. Vì vậy ở quy mô quốc gia, tính chu kỳ của TTCK, Bđs mình sẽ mô tả chi tiết hơn về 2 hiện tượng Voi trắng & Tê giác xám trong bài cuối cùng : Nhận dạng làn sóng Bđs thứ 4 – Tại sao thị trường Bđs VN luôn mang tính chu kỳ.

Phạm vi của đại khủng hoảng 1930 là toàn bộ các nước tư bản phương Tây vận hành nền KT thị trường là Bắc Mỹ và Châu Âu, kế đó ảnh hưởng gián tiếp đến các nước thuộc địa. Khủng hoảng 1930 thể hiện rõ tính bóc lột giai cấp công nhân của các ông chủ tư bản trong quan hệ biện chứng: Tiền vốn ->sx Hàng->Tiền vốn+”Tiền lợi nhuận”. Ở cuộc khủng hoảng 1930 các ông chủ tài phiệt ném hết hàng hóa dư thừa xuống biển nhằm giữ giá hàng hóa, đảm bảo mức lợi nhuận tương lai bất chấp xã hội đói khổ cần nó.

Các nước XHCN dựa vào sự tàn nhẫn, bóc lột của CNTB thời điểm đó lấy chủ nghĩa Mác chia đều cái “Tiền lợi nhuận” cho toàn dân như là một sức hút tập trung lực lượng dân cần lao mạnh nhất để thay đổi chính quyền, giải phóng nước thuộc địa. Nhưng sau này CNTB đã tiến hóa, tiến hành các cuộc cách mạng công nghiệp họ đã giải quyết vấn đề an sinh xã hội, thích nghi, tồn tại, và phát triển thông qua hệ thống sản xuất, phân phối vật chất hàng hóa, dịch vụ khổng lồ, lấp đầy cái dạ dày, thỏa mãn mọi ham muốn của con người, và chinh phục lại TG.

Còn các nước CNXH khi chia cái “Tiền lợi nhuận” thông qua KT tập chung đã bộ lộ nhiều lỗi cốt tử của bản chất con người là không thể có sự công bằng tuyệt đối cho tất cả, sự phân chia lại dưới bàn tay con người dễ sai sót, đã tạo ra sự ỷ nại trì trệ, trách nhiệm tập thể, còn lợi ích cá nhân bòn rút ở sau lưng. Nên nền KT các nước XHCN ngày càng đi xuống cho tới khi nó bám theo khái niệm KT thị trường định hướng XHCN.

Trở lại tình trạng kinh tế quốc gia suy thoái khi gặp khủng hoảng, đầu tư nước ngoài đột ngột rút vốn (hoặc ngưng rót), các doanh nghiệp bị đình đốn không có doanh thu vì giảm phát, không ai mua hàng hóa, không có ai tiêu tiền, không ai kiếm được tiền, tiền chuyển sang vàng, ngoại tệ và nằm im ở tài khoản ngân hàng, dòng tiền không dịch chuyển. Nếu tình trạng kéo dài, tất cả cùng ôm nhau chết vì doanh nghiệp cần thêm tiền để tồn tại, còn dân lại không muốn mang tiền ra đầu tư. Rõ ràng tiền trong ngân hàng là tiền của dân, không phải tiền của nhà nước, tiền của nhà nước thu chi theo luật ngân sách và nó nằm ở kho bạc. Tiền có ở ngân hàng thương mại (NHTM) huy động từ dân trung bình 7-8%/năm thì không thể cho vay như các gói ưu đãi lãi suất 4-5% mà CP đề ra, chưa kể NHTM còn phải nuôi bộ máy của nó.

Vậy muốn vực dậy nền KT, ngân hàng nhà nước (NHNN) phải in bơm thêm tiền vào các ngân hàng thương mại (đổi lấy lại là trái phiếu NHTM). NHTM có nguồn tiền mới lãi suất gần bằng 0% từ NHNN, để cho doanh nghiệp vay thông qua các gói cứu trợ lãi suất thấp. Nếu còn chế độ bản vị vàng thì tiền sẽ không được in thêm nếu không có thêm vàng dự trữ để bảo đảm bản vị – giữ giá trị đồng tiền. Khủng hoảng năm 1930, các nước vẫn theo bản vị vàng thì nền kinh tế quốc gia thiệt hại nặng, các doanh nghiệp hầu hết sẽ chết, tiền sẽ không được in thêm vì khi khủng hoảng KT TG vàng được thu gom tăng giá, bị rút vốn đầu tư hải ngoại, rút về mỗi nước.

Như vậy các nước nhanh chóng ra khỏi khủng hoảng năm 1930 là những nước bỏ bản vị vàng đầu tiên, tức tiền vẫn in thêm tới một ngưỡng đủ dùng cứu nền KT, còn bài toán giữ giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát tính tiếp sau đó. Giữ được doanh nghiệp là giữ được gốc rễ nền KT không bị tàn phá đi lùi có thể 10-20 năm. Tiền được in thêm đã được căn cứ theo tiên lượng GDP của năm kế tiếp, năng lực sản xuất quốc gia và dự trữ ngoại hối đồng tiền mạnh để thanh toán quốc tế. Nguyên lý hoạt động của tất cả các ngân hàng nhà nước của các quốc gia đều như vậy, ngoại trừ Mỹ nơi in tiền là FED – Cục dự trữ liên bang Mỹ, một tổ chức tư nhân của các gia đình tài phiệt lâu đời của Tư bản thực dân, ông chủ của mọi ông chủ TG.

VN non trẻ, từ là một nước thuộc địa của quốc gia bảo hộ Pháp – một nước đại diện của chủ nghĩa tư bản thực dân những năm 1945 trở về trước. Nhiều bạn trẻ sau này lớn lên cứ hay so sánh sự khập khiễng lạc hậu, nghèo đói của chúng ta với phương Tây, tư bản đứng đầu là Mỹ. Họ- giới Tư bản lâu đời đã có quá trình tích lũy tư bản thông qua đô hộ, bòn rút nhân công, tài nguyên khoáng sản, và cụ thể là vàng từ các nước thuộc địa gần 400 năm.

Từ năm 1602 công ty Đông Ấn (Hà Lan) đã phát hành cổ phiếu đầu tiên ra thị trường vốn – TTCK sơ khai, để giới tinh hoa Châu Âu mua cổ phiếu giúp công ty Đông Ấn có nguồn lực tài trợ cho các cuộc chiến tranh mở mang thêm thuộc địa đứng đầu giai đoạn ấy là Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha. Cho tới khi đế quốc Phổ (tiền thân nước Đức) nổi lên muốn phân chia lại thuộc địa, nhưng thất bại trong thế chiến thứ nhất, kiệt quệ khi bồi thường chiến phí lại gặp đại khủng hoảng KT 1930.

Hitler với lời hứa phục hồi nền KT, phục hồi sự vĩ đại chủng tộc da trắng Aryan đã thống nhất sức mạnh từ giới quý tộc tới cần lao Đức để khơi mào cuộc chiến TG thứ 2 vẫn là mục tiêu phân chia lại thuộc địa, quyền lợi KT. Cuối cùng Mỹ-Anh và đồng minh phương Tây cùng Liên Xô (LX) chiến thắng khối phát xít, thế giới chia 2 cực. Nước Đức bị chia thành Tây Đức và Đông Đức trong chiến tranh lạnh từ năm 1945 tới ngày LX sụp đổ kinh tế, sụp đổ nhà nước năm 1989, bức tường Berlin được hạ xuống cùng năm đó, nước Đức thống nhất.

Họ đã có một quá trình tích lũy tư bản như vậy, còn chúng ta thì chưa. Các nước phục hồi và phát triển KT thần kỳ sau chiến tranh TG II là Nhật, Hàn cũng là nhờ dòng vốn kiến thiết của Mỹ. Chúng ta là một nước thuộc địa, muốn thoát khỏi CNTB thực dân thời điểm đó thì chỉ có một con đường là theo khối XHCN – họ ủng hộ chúng ta vật lực, đường lối, chiến lược để thoát đô hộ thực dân.

Vì trước đó VN chúng ta – nhà Nguyễn đã bỏ lỡ một cơ hội mở cửa giao thương, các bến cảng, cho người nước ngoài các nước cùng vào định cư kinh doanh tránh bị xâm lược giống như triều đình Thái đã làm. Nước Thái mở cửa cho các nước thực dân nào cũng có cơ sở làm ăn kinh doanh ở đó, không của riêng ai, nên không nước nào được độc chiếm, đô hộ. Và nhà Nguyễn cũng bỏ lỡ cơ hội kết thân giao lưu với một nước phát triển như nước Nhật để đổi mới cách tân như nước Nhật kết thân với nước Mỹ để đổi mới thời Minh Trị.

Trở lại FED chủ sở hữu đồng tiền số 1- với đồng Dollar đầu tiên với tiêu ngữ ‘In God We Trust” in trên đồng 1 USD, hàm ý kêu gọi một sự tín thác vào đấng tối cao, một vector cảm hứng cho dân chúng trong chiến tranh và khủng hoảng đã có sức mạnh thần thánh từ khi nào!?.

Sau đại khủng hoảng 1930, nhờ chuẩn bị cho chiến tranh TG thứ 2, đầu tư, sản xuất cho chi tiêu quân sự tăng mạnh (giống như chúng ta đang tìm cách tiêu đầu tư công hiện nay để cứu nền KT) đã làm dòng tiền lưu thông trở lại phục hồi nền kinh tế Mỹ. Đồng Dollar đã ko còn dựa trên nền móng bản vị vàng. Mà nó sẽ được in thêm dựa trên chỉ số GDP, và lúc này dự trữ vàng chỉ là một nhân tố trong đánh giá năng lực sản xuất quốc gia, mà năng lực sản suất quốc gia GDP lại dựa trên thứ nguyên liệu dùng nhiều nhất của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 đó là dầu mỏ.

Những nước có lượng mỏ trữ dầu nhiều lúc bấy giờ là Liên Xô, khối các nước Arap. Sau chiến tranh TG thứ 2, VN chúng ta là chiến trường chiến tranh ủy nhiệm cuối cùng giữa 2 cực của thời chiến tranh lạnh giữa Tư bản phương Tây Mỹ đứng đầu và XHCN do Liên Xô, TQ đứng đầu. Đó là những năm tháng mà đồng Dollar đã dựa trên bản vị dầu mỏ, nước nào cũng muốn tích trữ nhiều đồng USD để có thể mua nhiều dầu mỏ phát triển KT.

Xem tiếp Phần 4-B: Dự đoán hậu Covid

Tác giả: Đông DC / BĐS An Cư

 

Chia sẻ tin này:

Có thể bạn quan tâm